Продолжая использовать сайт, вы даете свое согласие на работу с этими файлами.
LGBT
LGBT+ hoặc LGBTQ+ là các chữ cái viết tắt của Lesbian (đồng tính luyến ái nữ), Gay (đồng tính luyến ái nam), Bisexual (song tính luyến ái), Transgender (chuyển giới) và Queer (có xu hướng tính dục và bản dạng giới khác biệt, hoặc không nhận định mình theo bất kỳ nhóm nào) hoặc Questioning (đang trong giai đoạn tìm hiểu bản thân). Dấu cộng đại điện cho sự tồn tại đa dạng của các nhóm khác như: N là Non-binary (phi nhị nguyên giới), I Intersex (liên giới tính), A Asexual (vô tính luyến ái)...
Trong các nhóm trên, đồng tính luyến ái và song tính luyến ái là các dạng xu hướng tính dục. Các nhà khoa học chưa rõ nguyên nhân chính xác của đồng tính và song tính, nhưng họ đưa ra giả thuyết rằng đó là do sự tác động qua lại phức tạp của các nhân tố di truyền và ảnh hưởng từ môi trường nuôi dạy và văn hóa - xã hội. Năm 2019, một nghiên cứu quy mô lớn phân tích gien của 476.000 người đăng trên Tạp chí Khoa học Sciene cho thấy: yếu tố di truyền bẩm sinh chỉ đóng vai trò nhỏ (khoảng 8% - 25%), trong khi ảnh hưởng từ môi trường gia đình, văn hóa - xã hội (phim ảnh, sách báo, tuyên truyền, sự dạy dỗ và bạn bè) mới là nguyên nhân chính trong việc hình thành đồng tính và song tính. Vì vậy, một số quốc gia như Nga, Trung Quốc đã cấm tuyên truyền về LGBT vì e ngại những ảnh hưởng xấu đến nhận thức giới tính của thanh thiếu niên và nền tảng văn hóa quốc gia
Trong khi đó, người chuyển giới là người tự cho rằng bản thân có giới tính trái ngược với cơ thể sinh học của mình. Giới khoa học phân loại đây là một dạng bệnh tâm lý có tên là bức bối giới (Gender Dysphoria, tên gọi trước đây là rối loạn định dạng giới).
LGBTQ+ thể hiện các dạng xu hướng tính dục (sexual orientation), bản dạng giới (gender identity),thể hiện giới (gender expression) và thiên hướng tình dục (sexual attraction). Xu hướng tính dục có các nhóm phổ biến: dị tính luyến ái (heterosexual), đồng tính luyến ái (homosexual), song tính luyến ái (bisexual), toàn tính luyến ái (pansexual), vô tính luyến ái (asexual),... Theo bản dạng giới có thể có: nam, nữ, phi nhị nguyên giới, linh hoạt giới, vô giới, người chuyển giới, người hợp giới.
Vấn đề y tế lớn nhất mà người LGBT phải đối mặt hiện nay đó là tỷ lệ lây nhiễm HIV/AIDS trong nhóm này cao hơn rất nhiều so với mức trung bình, một phần bắt nguồn từ việc quan hệ tình dục bừa bãi với nhiều bạn tình
Lịch sử thuật ngữ
Một phần của loạt bài về |
Người đồng tính, song tính và hoán tính trên thế giới |
---|
Đồng tính luyến ái ở |
Ấn Độ Cộng hòa Séc Trung Quốc |
Đồng tính, song tính và hoán tính ở |
Việt Nam New Zealand Nhật Bản |
Thuật ngữ LGBT bắt đầu được sử dụng từ những năm 1990, tên viết tắt này bắt nguồn từ LGB, được dùng để thay thế thuật ngữ gay do sự xuất hiện của cộng đồng LGBT+ vào nửa cuối thập niên 1980, khi những nhà hoạt động xã hội tin rằng cụm từ cộng đồng gay không đại diện chính xác và bao gồm đầy đủ những người mà nó nói đến.
Người đồng tính (homosexual), cụm từ được sử dụng rộng rãi lần đầu tiên giờ đây mang một hàm ý tiêu cực ở nước Mỹ. Sau đó, nó được thay thế bởi homophile vào những năm 1950 và 1960, và tiếp theo là gay vào những năm 1970; cụm từ gay được chấp nhận trước bởi cộng đồng người đồng tính.
Khi mà những người đồng tính nữ ngày càng tạo dựng được sự hiện diện, thì cụm từ “đồng tính nam (Gay) và đồng tính nữ (Lesbian)” cũng trở nên thông dụng hơn. Một cuộc tranh cãi về việc liệu mục tiêu chính trị của người đồng tính nữ nên là nữ quyền hay quyền của người đồng tính đã dẫn đến sự tan rã của một số tổ chức dành cho người đồng tính nữ, bao gồm Daughters of Bilitis, tan rã vào 1970, theo đó là tranh cãi về việc nên đặt vấn đề nào là ưu tiên hàng đầu trước. Khi mà sự bình đẳng là ưu tiên hàng đầu đối với những nhà nữ quyền đồng tính nữ, sự bất tương xứng vai vế giữa nam và nữ cũng như giữa butch (tính nam) và femme (tính nữ) bị coi là biểu hiện của chế độ phụ quyền. Các nhà nữ quyền đồng tính nữ đã né tránh vai trò về giới - thứ đang phổ biến ở các quán bar khi đó - cũng như "chủ nghĩa sô vanh" của những người đồng tính nam; nhiều nhà nữ quyền đồng tính nữ từ chối hợp tác với người đồng tính nam, hoặc đảm nhiệm sứ mệnh của họ.
Những người đồng tính nữ giữ quan điểm bản chất luận, rằng họ sinh ra đã là đồng tính luyến ái và sử dụng từ "đồng tính nữ" để định nghĩa sự hấp dẫn về tình dục, thường coi những ý kiến ly khai của những người theo chủ nghĩa nữ quyền là bất lợi cho bản chất quyền của người đồng tính. Những người song tính và chuyển giới cũng tìm kiếm sự công nhận là những nhóm chính thức trong cộng đồng thiểu số lớn hơn.
Trước sự phấn khởi về sự thay đổi sau hành động nhóm trong cuộc bạo loạn Stonewall năm 1969 ở thành phố New York, vào cuối những năm 1970 và đầu những năm 1980, một số người đồng tính nam và đồng tính nữ dần trở nên ít chấp nhận người song tính hoặc chuyển giới hơn. Các nhà phê bình nói rằng những người chuyển giới thể hiện không đúng theo các khuôn mẫu về họ và những người song tính chỉ đơn giản là những người đồng tính nam hoặc đồng tính nữ người e sợ phải công khai và thành thật về bản dạng của họ. Mỗi cộng đồng đã phải đấu tranh để phát triển bản sắc riêng của mình bao gồm cả việc liệu có nên hay không và làm thế nào, để hòa hợp với những cộng đồng dựa trên giới và tính dục khác, dẫn đến việc đôi khi loại trừ các phân nhóm nhỏ hơn; những xung đột này vẫn tiếp tục cho đến ngày nay. Các nhà hoạt động LGBT+ và các nghệ sĩ đã sử dụng những áp phích để nâng cao nhận thức về vấn đề này kể từ khi phong trào bắt đầu.
Từ khoảng năm 1988, các nhà hoạt động bắt đầu sử dụng thuật ngữ LGBT ở Hoa Kỳ. Mãi đến những năm 1990, trong phong trào này, người đồng tính nam, đồng tính nữ, song tính và chuyển giới mới được tôn trọng một cách bình đẳng. Điều này đã thúc đẩy một số tổ chức áp dụng những cái tên mới, như Hiệp hội Lịch sử GLBT đã làm vào năm 1999. Mặc dù cộng đồng LGBT+ đã chứng kiến nhiều tranh cãi liên quan đến việc chấp nhận phổ biến đến các nhóm thành viên khác nhau (đặc biệt là các cá nhân song tính và chuyển giới, đôi khi bị cho ra rìa bởi cộng đồng LGBT lớn hơn), thuật ngữ LGBT đã là một biểu tượng tích cực của sự hòa nhập.
Mặc dù trên danh nghĩa, LGBT không bao gồm tất cả những từ viết tắt chỉ các cá nhân trong các cộng đồng nhỏ hơn (xem Các biến thể bên dưới), thuật ngữ này thường được chấp nhận để bao gồm những người không được xác định cụ thể trong nghĩa viết tắt của bốn chữ cái. Nhìn chung, việc sử dụng thuật ngữ LGBT theo thời gian đã hỗ trợ phần lớn trong việc đưa những cá nhân vào cộng đồng chung.
Vào năm 2016, Hướng dẫn tham khảo về phương tiện truyền thông của GLAAD tuyên bố rằng LGBTQ là thuật ngữ nên được sử dụng phổ biến hơn, bởi vì nó bao gồm các thành viên trẻ của cộng đồng chấp nhận từ Queer (không coi mình thuộc bất kỳ nhóm nào) là một từ tự mô tả bản thân. Tuy nhiên, một số người xem "Queer" là một thuật ngữ xúc phạm có nguồn gốc ngôn từ kích động thù địch và từ chối nó, đặc biệt là một số thành viên lớn tuổi.
Đến nay, có thêm nhiều chữ cái mới và vấn đề vị trí giữa các chữ cái vẫn chưa được giải quyết. Nên nhiều người thường dùng LGBT+ để biểu thị rằng cộng đồng còn bao gồm những nhóm khác.
Các biến thể của thuật ngữ
Tổng quan
Nhiều biến thể bao gồm các thuật ngữ thay đổi vị trí của cái chữ cái như LGBT hay GLBT là những thuật ngữ thông dụng nhất. Tuy giống nhau về nghĩa, LGBT thường mang hàm ý nghiêng về nữ quyền hơn GLBT vì chữ cái “L” (đồng tính nữ) được đặt lên đầu.LGBT cũng bao gồm chữ cái Q tượng trưng cho người "queer" hoặc "băn khoăn về xu hướng tính dục của bản thân" (đôi khi được viết tắt với một dấu hỏi chấm và được dùng cho những người không hẳn là L, G, B hay T), tạo ra những thuật ngữ LGBTQ hay LGBTQQ. Ở Anh, thuật ngữ được cách điệu thành LGB&T,, trong khi Đảng Xanh nước Anh và xứ Wales dùng thuật ngữ LGBTIQ trong các ấn phẩm và tuyên ngôn chính thức của mình.
Thứ tự của các chữ cái cũng không được tiêu chuẩn hóa, ngoài các biến thể giữa các chữ “L” hay “G”, những chữ cái ít thông dụng hơn, nếu được sử dụng, thì có thể được đặt ở bất kỳ vị trí nào. Những thuật ngữ dài dựa trên LGBT thường bị cho là hỗn tạp và quá khó hiểu. Các thuật ngữ biến thể thường không tượng trưng cho sự khác biệt về quan điểm chính trị trong cộng đồng, mà thường chỉ đơn giản là nêu lên sự lựa chọn của các cá nhân và nhóm.
Các thuật ngữ như toàn tính (pansexual), omnisexual, fluid (linh hoạt) và queer-identified thường được xem như là những thuật ngữ con thuộc về thuật ngữ song tính (bisexual) (và vì vậy chúng được xem như là một phần của cộng đồng người song tính).
Một vài người dùng LGBT+ để nói về “LGBT và những cộng đồng có liên quan”. Bên cạnh đó, thuật ngữ LGBTQIA cũng thường hay được sử dụng và ba chữ cái viết tắt thêm là "queer, liên giới tính (intersex), và vô tính (asexual)". Những biến thể khác có thể bao gồm chữ “U” (unsure) cho "không chắc chắn"; "C" (curious) cho "sự tò mò"; thêm một chữ "T" (transvestite) cho "người ăn mặc xuyên giới"; "TS", hoặc "2" cho "hai tâm hồn" (two-spirit); "SA" (strangiht allies) cho những "đồng minh dị tính". Tuy nhiên sự bao gồm đồng minh dị tính vào thuật ngữ LGBT đã dấy lên tranh cãi khi mà những người dị tính đã dùng phong trào LGBT để tăng sự nổi tiếng và địa vị trong những năm gần đây, và nhiều nhà hoạt động xã hội LGBT đã chỉ trích thế giới quan định chuẩn hóa dị tính của những người dị tính nhất định. Một vài người thêm chữ “P” (polyamorous) đa tính, chữ "H" cho "những người nhiễm HIV " hay "O" (other) khác. Còn thuật ngữ LGBTIH được sử dụng ở Ấn Độ để bao gồm hijra third gender những tiểu văn hóa có liên quan.
Thuật ngữ LGBTTQQIAAP (đồng tính nữ, đồng tính nam, người song tính, chuyển giới, transsexual, queer, khám phá tính dục, liên giới tính, vô tính, đồng minh, toàn tính cũng được tạo ra, nhưng gặp nhiều chỉ trích vì quá rắc rối, và không bao gồm một số nhóm thiểu số khác cũng như là vấn đề về vị trí của các chữ cái trong thuật ngữ mới. Tuy nhiên, việc thêm cụm từ "đồng minh" (allies) vào thuật ngữ đã dẫn đến tranh cãi, vì một số người xem sự bao gồm của "ally" thay thế cho "asexual" như là một cách xóa bỏ sự hiện diện của người vô tính. Ngoài ra, còn có thuật ngữ QUILTBAG (queer and questioning, unsure, intersex, lesbian, transgender and two-spirit, bisexual, asexual and aromantic, and gay and genderqueer).
Tương tự, LGBTIQA+ tượng trưng cho "đồng tính nữ, đồng tính nam, người song tính, chuyển giới, liên giới tính, queer/questioning, vô tính/vô ái/vô giới và nhiều cụm từ khác (như phi nhị giới và toàn tính)". Dấu cộng sau chữ "A" có thể chỉ một chữ A thứ hai tượng trưng cho đồng minh (allies).
Ở Canada, cộng đồng đôi khi được xác định là LGBTQ2 (Đồng tính nữ, Đồng tính nam, Song tính, Chuyển giới, Queer và Hai tâm hồn). Tùy thuộc vào từng tổ chức mà sự lựa chọn về chữ viết tắt sẽ khác nhau. Các doanh nghiệp và CBC thường sử dụng cụm từ LGBT làm đại diện cho bất kỳ từ viết tắt nào dài hơn, còn các nhóm hoạt động tư nhân thường sử dụng LGBTQ+, trong khi các nhà cung cấp dịch vụ y tế công cộng ưu tiên LGBT2Q+ để phù hợp với những người bản địa hai tâm hồn. Trong một khoảng thời gian, tổ chức Pride Toronto đã sử dụng từ viết tắt khá dài LGBTTIQQ2SA, nhưng dường như đã bỏ cụm từ này để dùng những cụm từ đơn giản hơn.
Sự bao gồm người chuyển giới
Cụm từ trans* đã được tiếp nhận bởi một số nhóm như là một từ thay thế bao hàm cho “transgender” (chuyển giới), khi mà trans (không có dấu hoa thị) được sử dụng để mô tả người chuyển giới nam và người chuyển giới nữ, trong khi trans* bao hàm tất cả những bản dạng phi hợp giới bao gồm người chuyển giới, transsexual (người chuyển giới muốn trị liệu định giới), ăn mặc xuyên giới, đa dạng giới, linh hoạt giới, phi nhị giới, genderfuck, genderless, vô giới, non-gendered, giới thứ ba, song linh, song giới, chuyển giới nam và chuyển giới nữ. Tương tự, cụm từ transsexual thường thuộc trong transgender, nhưng một số người transsexual phản đối điều này.
Khi không bao gồm người chuyển giới, thuật ngữ rút gọn LGB được sử dụng thay vì LGBT.
Sự bao gồm người liên giới tính
Mối quan hệ của người liên giới tính với các cộng đồng đồng tính nữ, đồng tính nam, song tính và chuyển giới, queer là rất phức tạp, nhưng những người liên giới tính thường được thêm vào danh mục LGBT để tạo ra một cộng đồng LGBTI. Một số người liên giới tính ưa thích thuật ngữ LGBTI hơn, trong khi những người khác lại muốn họ không được đưa vào như một phần của thuật ngữ này. Emi Koyama mô tả cách đưa người liên giới tính vào LGBTI có thể không giải quyết được các vấn đề cụ thể của người liên giới tính, bao gồm cả việc tạo ra ấn tượng sai lầm "rằng quyền của người liên giới tính được bảo vệ bởi luật bảo vệ người LGBT", và không thừa nhận rằng nhiều người liên giới tính không phải là LGBT.Tổ chức Intersex International Australia tuyên bố rằng một số cá nhân liên giới tính bị thu hút bởi những người cùng giới tính và một số người dị tính, nhưng "hoạt động LGBTI đã đấu tranh cho quyền của những người nằm ngoài hệ nhị phân giới tính và ngoài những chuẩn mực giới".Julius Kaggwa của SIPD Uganda đã viết rằng, trong khi cộng đồng người đồng tính" cung cấp cho chúng tôi một nơi an toàn tương đối, họ cũng không để ý đến/ không nhận biết được nhu cầu cụ thể của chúng tôi".
Nhiều nghiên cứu đã cho thấy tỷ lệ hấp dẫn đồng giới cao hơn ở những người liên giới tính, một nghiên cứu gần đây của Úc về những người sinh ra với các đặc điểm giới tính khác thường cho thấy 52% người được hỏi không phải là người dị tính, do đó nghiên cứu về đối tượng liên giới tính đã được sử dụng để khám phá các phương tiện ngăn ngừa đồng tính luyến ái. Là trường hợp được sinh ra với các đặc điểm giới tính không phù hợp với các chuẩn mực xã hội, người liên giới tính có thể được phân biệt với người chuyển giới, trong khi một số người liên giới tính là hỗn hợp cả liên giới tính và chuyển giới.
Sự chỉ trích về thuật ngữ
Từ viết tắt LGBT hay GLBT không có được sự đồng thuận của mọi người vì chúng không bao gồm tất cả. Ví dụ, một vài người tranh luận rằng bản chất người chuyển giới thì không giống như là đồng tính nam, đồng tính nữ và người song tính (LGB). Tranh luận này xoay quanh vấn đề rằng là một người chuyển giới thì liên quan nhiều đến bản dạng giới hoặc sự hiểu biết của một người về việc là nam hay nữ, mà không kể đến xu hướng tính dục của họ. Những vấn đề về LGB có thể được xem như là vấn đề về xu hướng và sự hấp dẫn tính dục. Những sự khác biệt này đã được nêu ra trong bối cảnh chính trị, điều mà những mục tiêu của LGB như là hợp pháp hóa hôn nhân đồng giới và nhân quyền (điều mà không bao gồm người chuyển giới và người liên giới tính), có thể được xem là khác với những mục tiêu của người chuyển giới.
Một niềm tin vào "chủ nghĩa ly khai đồng tính nam và đồng tính nữ" (tránh nhầm lẫn với "chủ nghĩa ly khai đồng tính nam và đồng tính nữ") tin rằng những người đồng tính nam và đồng tính nữ thành lập (hoặc nên hình thành) một cộng đồng tách biệt với các nhóm khác thường được bao gồm trong phạm vi LGBTQ. Những người theo chủ nghĩa ly khai mặc dù không phải lúc nào cũng có đủ số lượng để được xem là một phong trào nhưng họ là một nhân tố quan trọng, tích cực và thẳng thắn trong cộng đồng LGBT. Trong một số trường hợp những người theo chủ nghĩa ly khai sẽ chối bỏ sự tồn tại và quyền bình đẳng của những người song tính và chuyển đổi giới tính, đôi khi gây nên chứng ghét sợ song tính và chuyển giới. Đối lập với những người theo chủ nghĩa ly khai, Peter Tatchell thuộc nhóm về nhân quyền LGBT OutRage!, tranh luận rằng tách phong trào của người chuyển giới ra khỏi LGB sẽ là "một sự điên rồ về mặt chính trị", anh nói:
Người Queers cũng như người chuyển giới là những chống lại chuẩn mực về giới. Chúng tôi không tuân theo bất cứ sự giả định dị tính của hành vi nam nữ, bởi vì chúng tôi có những mối quan hệ tình cảm và tình dục với người đồng giới. Chúng tôi nên ăn mừng sự khác biệt của mình với những chuẩn mực dị tính đại chúng khác.[...]
Một vài những người đồng tính nam, đồng tính nữ, người song tính và chuyển giới không thích cách mô tả về một “cộng đồng LGBT” hay “LGB” bao hàm tất cả. Một số người không tán thành những chiến dịch đoàn kết chính trị xã hội, sự hiện diện và vận động nhân quyền, điều mà thường kèm theo nó là lễ diễu hành tự hào đồng tính. Vài người tin rằng nhóm những người phi dị tính lại với nhau làm lưu truyền ý nghĩ rằng việc là người đồng tính/song tính/vô tính/toàn tính/v.v làm cho một người khác biệt do thiếu sót hơn so với người khác. Những người này thường ít được biết đến hơn so với những nhà hoạt động xã hội LGBT đại chúng. Vì bộ phận này rất khó để phân biệt với số đông người dị tính, mọi người thường cho rằng tất cả người LGBT ủng hộ phong trào tự do LGBT và sự hiện diện của người LGBT trong xã hội, bao gồm quyền được sống một cuộc đời với cách khác với số đông. Trong cuốn sách Anti-Gay năm 1996, một tuyển tập các bài luận được chỉnh sửa bởi Mark Simpson, khái niệm bản dạng “một kích cỡ vừa tất cả” dựa trên những khuôn mẫu LGBT bị chỉ trích vì kìm hãm tính cá nhân của cộng đồng LGBT.
Viết trong tờ BBC News Magazine năm 2014, Julie Bindel tự hỏi rằng liệu các nhóm giới hiện nay có cùng nhau chia sẻ vấn đề và mục tiêu giống nhau? Bindel nói đến một vài cách viết tắt khác chỉ những sự kết hợp khác nhau và kết luận rằng đã đến lúc các liên minh phải được cải cách hoặc tách biệt hoàn toàn. Vào 2015, câu slogan “Hãy loại bỏ chữ T” được hình thành nhằm khuyến khích các tổ chức LGBT ngừng ủng hộ người chuyển giới; trong khi nhận được rất nhiều sự ủng hộ của một vài nhà nữ quyền cũng như là một số người chuyển giới, nhiều nhóm LGBT lên án chiến dịch này là kỳ thị người chuyển giới.
Những thuật ngữ thay thế
Nhiều người đã tìm kiếm một thuật ngữ chung để thay thế nhiều từ viết tắt đã có từ trước. Những từ như queer (một thuật ngữ chung cho các nhóm tính dục và giới tính thiểu số không thuộc về dị tính hay nhị nguyên giới) và cầu vồng đã được thử, nhưng hầu hết đều chưa được dùng rộng rãi.Queer có nhiều hàm ý tiêu cực, đối với những người lớn tuổi nhớ từ này như một lời chế nhạo và xúc phạm, và cách sử dụng tương tự (một cách tiêu cực) khác đối với thuật ngữ này vẫn còn tiếp diễn. Nhiều người trẻ tuổi cũng cho rằng queer có tính chính trị hơn LGBT. "Cầu vồng" có ý chỉ những người hippies, các phong trào Thời đại Mới và các nhóm như Gia đình Cầu vồng hoặc Cầu vòng của Jesse Jackson/Liên minh PUSH. SGL ("tình yêu đồng giới") đôi khi được những người đồng tính nam Mỹ gốc Phi ưa chuộng như một cách để phân biệt mình với cộng đồng LGBT da trắng da trắng thống trị.
Một số người ủng hộ thuật ngữ "nhóm thiểu số tính dục và bản dạng giới" (MSGI, được đặt ra vào năm 2000), hoặc các nhóm thiểu số giới và tính dục/nhóm thiểu số tính dục (GSM) để trực tiếp bao gồm tất cả những người không phải là người dị giới và dị tính; hoặc các nhóm thiểu số giới, tính dục và tình cảm (GSRM), trong đó bao gồm cả các xu hướng lãng mạn thiểu số và sự đa ái; tuy vậy những thuật ngữ đó cũng không được sử dụng rộng rãi. Các thuật ngữ bao quát hiếm gặp khác là Đa dạng Giới và Tính dục (GSD), MOGII (Các tính hướng bản lề, Bản dạng giới, và Liên giới tính) và MOGAI (Các tính hướng bản lề, Gender Alignment (Sự giao nhau về giới) và Liên giới tính).
Viện Sức khỏe Quốc gia Mỹ đã đóng khung LGBT, những người "có xu hướng tính dục và/hoặc bản dạng giới khác nhau, những người có thể không tự coi mình là LGBT" và cả người liên giới tính (những người bị các chứng rối loạn phát triển giới tính) là những người "thiểu số tính dục và giới (SGM)". Định nghĩa này đã dẫn đến sự phát triển của một kế hoạch chiến lược nghiên cứu y tế NIH SGM.Viện Williams đã sử dụng thuật ngữ tương tự trong một báo cáo về các mục tiêu phát triển bền vững quốc tế, nhưng không bao gồm người liên giới tính.
Tại các cơ sở y tế công cộng, thuật ngữ MSM ("nam quan hệ tình dục với nam") được sử dụng để mô tả những người đàn ông quan hệ tình dục với những người đàn ông khác mà không đề cập đến xu hướng tính dục của họ (bởi thực tế rằng không phải người đàn ông nào trong số này cũng là đồng tính, có những người quan hệ với đàn ông khác chỉ vì tiền bạc hoặc lợi ích vật chất chứ không phải vì tình cảm yêu đương), cùng với WSW ("phụ nữ quan hệ tình dục với phụ nữ") cũng được sử dụng như một thuật ngữ tương tự.
Giải thích các thuật ngữ
- Đồng tính luyến ái (Homosexual)
Nói đến người có xu hướng tính dục (sexual orientation) đồng tính luyến ái bao gồm: đồng tính luyến ái nữ (lesbian) và đồng tính luyến ái nam (gay), gọi tắt là đồng tính. Họ là người cảm thấy sự hấp dẫn tình yêu và/hoặc tình dục với người cùng giới tính. Khác với người có xu hướng tính dục dị tính luyến ái, là cảm thấy sự hấp dẫn tình yêu và/hoặc tình dục với người khác giới tính.
- Song tính luyến ái
Chỉ những người có sự hấp dẫn tình yêu, tình dục với cả những người cùng giới và khác giới tính một cách lâu dài.
- Người chuyển giới
Là những người có bản dạng giới (nhận định, cảm nhận giới tính) khác với những đặc điểm giới tính của người đó lúc sinh ra, bao gồm người chuyển giới đã phẫu thuật và người chuyển giới chưa (hoặc không qua) qua phẫu thuật định giới.
Các vấn đề xã hội
Liên Hiệp quốc
Một báo cáo của tổ chức GLAAD ban hành vào tháng 2 năm 2011 cho thấy, 90% số người chuyển giới phải đối mặt với kỳ thị tại nơi làm việc và tỷ lệ thất nghiệp gấp đôi tỷ lệ chung của dân số. Hơn một nửa số họ đã bị sách nhiễu hoặc bị từ chối khi cố gắng tiếp cận vào các dịch vụ công cộng. Các thành viên của cộng đồng người chuyển giới cũng gặp phải sự phân biệt đối xử trong vấn đề chăm sóc sức khỏe hàng ngày.
Luật pháp
Mặc dù đồng tính luyến ái đã không còn bị coi là hành vi phạm pháp tại nhiều nơi ở phương Tây, chẳng hạn nhưBa Lan 1932, Đan Mạch 1933, Thụy Điển 1944 và Anh 1967, cộng đồng đồng tính vẫn chưa có quyền hợp pháp dẫu chỉ là hạn chế cho đến giữa những năm 70 Năm 1977, bang Québec tại Canada đã trở thành bang đầu tiên cấm kỳ thị dựa trên thiên hướng tình dục. Những năm 1990, nhiều nước phát triển đã hợp pháp hóa đồng tính luyến ái và cấm kỳ thị người đồng tính trong công việc, cư trú và dịch vụ. Ngày 26 tháng 6 năm 2015, Tòa án Tối cao Hoa Kỳ thông qua quyết định chính thức hợp pháp hóa hôn nhân đồng giới trên toàn lãnh thổ Hoa Kỳ. Tính tới năm 2022, đã có hơn 30 quốc gia công nhận hôn nhân đồng tính, hầu hết ở châu Âu và châu Mỹ, gồm: Hà Lan - 2001, Bỉ - 2003, Canada - 2005, Tây Ban Nha - 2005, Nam Phi - 2006, Na Uy - 2009, Thụy Điển - 2009, Bồ Đào Nha - 2010, Iceland - 2010, Argentina - 2010, Đan Mạch - 2012, New Zealand - 2013, Uruguay - 2013, Brazil - 2013, Vương Quốc Anh - 2013, Pháp - 2013, Scotland - 2014, Luxembourg - 2015, Slovenia - 2015, Ireland - 2015, Hoa Kỳ - 2015, Colombia, Greenland - 2016, Phần Lan, Malta, Đức, Úc - 2017, Áo, Đài Loan, Ecuador - 2019, Costa Rica - 2020, Chile - 2022.
Ngược lại, tính đến tháng 7 năm 2015, có 72 nước có luật hình sự hóa hành vi đồng tính luyến ái, hầu hết số đó nằm ở châu Á và châu Phi. Các nước này gồm: Afghanistan, Algeria, Angola, Antigua và Barbuda, Bangladesh, Barbados, Belize, Bhutan, Botswana, Brunei, Burundi, Cameroon, Comoros, Dominica, Ai Cập, Eritrea, Ethiopia, Gambia, Ghana, Grenada, Guinea, Guyana, Ấn Độ, Iran, Jamaica, Kenya, Kiribati, Kuwait, Liberia, Libya, Malawi, Malaysia, Maldives, Mauritania, Maroc, Myanmar, Namibia, Nauru, Nigeria, Oman, Pakistan, Papua New Guinea, Qatar, Saint Kitts và Nevis, Saint Lucia, Saint Vincent và Grenadines, Samoa, Ả Rập Xê Út, Senegal, Seychelles, Sierra Leone, Singapore, Quần đảo Solomon, Somalia, Nam Sudan, Sri Lanka, Sudan, Swaziland, Syria, Tanzania, Togo, Tonga, Trinidad và Tobago, Tunisia, Turkmenistan, Tuvalu, Uganda, Các Tiểu vương quốc Ả Rập Thống nhất, Uzbekistan, Yemen, Zambia và Zimbabwe. Trong số trên có 7 nước Hồi giáo gồm: Afghanistan, Saudi Arabia, Brunei, Iran, Yemen và Nigeria có hình phạt tử hình đối với người có hành vi đồng tính luyến ái (vì luật đạo Hồi coi đồng tính luyến ái là một tội nặng).
Tại Thái Lan có cộng đồng LGBT sôi nổi, nhưng điều này chỉ có ở ngành kinh doanh giải trí thu lợi nhuận vốn tách biệt với nền chính trị và xã hội Thái bảo thủ. Năm 2014, một dự luật hợp pháp hóa hôn nhân đồng tính được soạn thảo bởi Quốc hội Thái Lan và được hỗ trợ từ cả hai Đảng, nhưng sau đó đã bị đình trệ do khủng hoảng chính trị trong nước.
Ở những quốc gia Hồi giáo như Indonesia đã ban hành luật cấm nghiêm khắc chống lại người đồng tính. Quan hệ tình dục đồng tính có thể bị phạt 20 năm tù và bị đánh roi ở Malaysia. Tại Singapore, hành vi đồng tính có thể bị phạt roi ở nơi công cộng. Ở Nhật Bản, văn hóa và những tôn giáo lớn không có thái độ thù ghét những cá nhân đồng tính, nước này không có luật nào chống lại đồng tính luyến ái nhưng hôn nhân đồng tính thì không được công nhận, và hiến pháp Nhật Bản quy định rõ "hôn nhân là giữa một người nam và một người nữ". Năm 2010, trong khuôn khổ Diễn đàn nhân dân ASEAN, Mạng lưới Xu hướng tính dục và Bản dạng giới ASEAN được hình thành. Đây là lần đầu tiên, vấn đề người đồng tính, song tính và chuyển giới được nhắc đến trong tuyên bố chung của Diễn đàn thường niên.
Ở khu vực Trung Đông vốn tập trung nhiều nước theo Hồi, đồng tính luyến ái bị pháp luật cấm nghiêm khắc. Duy nhất ở Israel (nước này không theo đạo hồi), quyền của người đồng tính được pháp luật hỗ trợ. Israel là nước có tỉ lệ ủng hộ hôn nhân đồng giới cao nhất thế giới với 61% người dân ủng hộ.Israel là nước Trung Đông đầu tiên và duy nhất cho đến nay công nhận sự chung sống không đăng ký của cặp đôi đồng giới. Mặc dù chưa công nhận hôn nhân đồng giới, Israel là quốc gia Trung Đông đầu tiên và duy nhất cho đến nay công nhận hôn nhân đồng giới ở nước khác. Kỳ thị dựa trên thiên hướng tình dục bị cấm vào năm 1992. Theo một quyết định năm 2008, các cặp đồng giới cũng được quyền nhận con nuôi. Ở đây, người đồng tính được quyền công khai tham gia quân ngũ.
Với người chuyển giới, hiện tại đã có hơn 25 quốc gia và vùng lãnh thổ công nhận người chuyển giới. Cho đến năm 2014, các quốc gia đã công nhận và cho phép phẫu thuật chuyển giới bao gồm: Thụy Điển (1972), Đức (1981), Italia (1982), Hà Lan (1985), Thổ Nhĩ Kỳ (1988), Trung Quốc (2003), Nhật Bản (2004), New Zealand (1995), Panama (1975), Romani (1996), Nam Phi (2003), Iran, Vương quốc Anh (2004), Tây Ban Nha (2006), Urugoay (2009), Bồ Đào Nha (2011), Ấn Độ, Lithuana, Serbia, Argentina, Malaysia, Thái Lan, Singapore, Philippines, Hồng Kông – Trung Quốc, Đài Loan, Hàn Quốc (năm 2012) và nhiều bang, vùng của Úc, Canada, Hoa Kỳ... Úc, New Zealand và Nepal đã cấp hộ chiếu (visa) công nhận người chuyển giới, trong đó những người không thuộc giới tính "M" hay "F" có thể chọn chữ "X" thay thế. Tháng 8/2015, Hoa Kỳ đã bổ nhiệm cô Raffi Freedman-Gurspan - một người chuyển giới nữ công khai, giữ chức vụ Giám đốc khai thác và tuyển dụng nhân sự phục vụ cho Tổng thống.
Tháng 4 năm 2014, Toà án tối cao Ấn Độ đã ra phán quyết công nhận người chuyển giới là "giới tính thứ ba" trong luật pháp, cho phép người chuyển giới thực hiện chuyển đổi giới tính và sửa lại giới tính của mình trong các giấy tờ pháp lý là giới tính thứ 3 (không phải nam cũng không phải nữ) giống như Nepal, luật đã có tác động tới khoảng 3 triệu người chuyển giới tại Ấn Độ. Tuy nhiên, hành vi đồng tính tại Ấn Độ thì sẽ bị phạt nặng, có thể lên tới 10 năm tù giam
Công khai
Mức độ công khai thiên hướng tình dục của những người LGBT phụ thuộc vào việc họ sống trong một môi trường có chuẩn mực văn hóa-xã hội, các quy định tôn giáo và luật pháp, các mối quan hệ trong nội bộ gia đình ra sao, cũng như tình trạng về quyền LGBT nơi họ sinh sống.
Có những người nổi tiếng công khai thiên hướng tình dục đồng tính, trong đó có cả chính khách, nhà lãnh đạo các tập đoàn như: Thủ tướng Luxembourg - Xavier Bettel , nữ thủ tướng Iceland - Johanna Sigurdardottir , Robert Hanson - Giám đốc Tập đoàn trang sức John Hardy, Robert Greenblatt - Chủ tịch hãng truyền thông NBC Entertainment của Hoa Kỳ, Bob Page - Giám đốc điều hành Tập đoàn Replacement
Một số diễn viên Hollywood, ca sĩ, MC công khai là người đồng tính hoặc song tính như: Ricky Martin, Neil Patrick Harris, Wentworth Miller, Luke Evans, Kristen Stewart, Ellen DeGeneres, Adam Lambert....
Một số cầu thủ bóng đá công khai mình là người đồng tính như: Thomas Hitzlsperger (từng 52 lần đại diện cho Đội tuyển quốc gia Đức), Robbie Rogers, David Testo, Anton Hysén...
Trích dẫn
Quan điểm chính thức của Giáo hội Công giáo Rôma với hơn 1 tỷ tín đồ trên toàn thế giới, đại diện là Tòa Thánh Vatican, phân biệt giữa khuynh hướng đồng tính và hành vi đồng tính, đồng thời đón nhận người đồng tính nhưng không chấp nhận hôn nhân đồng tính. Một mặt, Tòa thánh kêu gọi bao dung và phản đối các hành động bạo hành chống người đồng tính, "phải đón nhận họ với lòng tôn trọng, thông cảm và tế nhị, tránh đối xử bất công", nhưng mặt khác, Tòa thánh kiên quyết chống lại hôn nhân đồng giới để bảo vệ giá trị của gia đình truyền thống và đức tin Ki-tô giáo. Giáo hoàng hưu trí Biển Đức XVI khi còn tại vị đã tiếp tục quan điểm này khi cho rằng hôn nhân đồng tính cấu thành hành vi chống lại sự thật bản chất của con người. Đó là một nỗ lực không mệt mỏi của cả Vatican mà người đứng đầu là Giáo hoàng, nhằm cố gắng thức tỉnh Hoa Kỳ và một loạt các nước châu Âu đang đòi hỏi công nhận hôn nhân đồng tính trong thời gian qua. Giáo hoàng Biển Đức XVI đã lên tiếng bày tỏ quan điểm rằng: hôn nhân đồng tính là phi tự nhiên và có thể gây nhiều phẫn nộ ảnh hưởng tới hòa bình và công lý trên thế giới. Giáo hoàng Biển Đức XVI từng kêu gọi:
“ |
Chúng ta cần phải phổ cập và lan truyền kiến thức về hôn nhân tự nhiên trong sự giao hòa giữa phái nam và phái nữ nhằm gia tăng nỗ lực chống lại mọi sự dị biến hôn nhân. Những dị biến như thế làm mất ổn định tính tự nhiên của hôn nhân, che lấp bản chất vốn có của hôn nhân và làm phai nhạt vai trò quan trọng của nó đối với xã hội. Nguyên tắc hôn nhân này không phải là chân lý đức tin mà đơn giản là hệ quả tất yếu của quyền tự do tôn giáo, thể hiện bản chất của con người và là một thành quả phát triển của nhân loại. [...] Hãy biết thêm về giá trị của gia đình và hôn nhân. Là tín đồ Kitô, chúng ta có bổn phận bảo vệ nguyên tính và nhất thống của hôn nhân giữa một người nam và một người nữ trước bất kỳ hình thức diễn dịch lệch lạc nào. |
” |
Các vấn đề y tế và dịch bệnh HIV/AIDS
Năm 2003, một nghiên cứu về đồng tính nam ở Hà Lan được công bố trong Tạp chí AIDS phát hiện ra rằng "thời gian có quan hệ ổn định" với mỗi bạn tình chỉ là 1 năm rưỡi, và mỗi đồng tính nam có trung bình 8 đối tác tình dục mỗi năm. Năm 2010, báo cáo của Trung tâm kiểm soát dịch bệnh Mỹ (CDC) cho biết trong số các ca nhiễm HIV mới ở Hoa Kỳ thì số ca là nam thanh niên đồng tính trẻ tuổi cao hơn rất nhiều so với mức chung, có nhiều nguyên nhân cho việc này:
- Tỷ lệ bị nhiễm HIV trong cộng đồng đồng tính luyến ái nam vốn cao, làm tăng khả năng lây nhiễm trong cộng đồng so với dân số thông thường.
- Các yếu tố xã hội như thành kiến và thiếu khả năng tiếp cận hệ thống y tế đối với cộng đồng này.
- Nam giới trẻ có quan hệ đồng giới thường có các hành vi nguy cơ cao (như quan hệ tình dục với nhiều hơn 4 bạn tình, tiêm chích ma túy).
Thống kê của Trung tâm kiểm soát dịch bệnh Mỹ năm 2011 cho biết: nam đồng tính có khả năng nhiễm HIV cao gấp 44 tới 86 lần so với nam giới bình thường, và cao gấp 40 tới 77 lần so với nữ giới. Năm 2009, thống kê cho biết có 61% số ca nhiễm HIV mới ở Mỹ là đồng tính hoặc song tính, dù nhóm này chỉ chiếm khoảng 2% dân số Mỹ.
Hoa Kỳ hiện đang cấm nhóm đối tượng nam quan hệ tình dục với nam đi hiến máu "vì họ là một nhóm có nguy cơ cao bị nhiễm HIV, viêm gan B và một số bệnh nhiễm trùng khác có thể được lây truyền qua truyền máu" Vương quốc Anh và nhiều nước châu Âu đã cấm tương tự.
Dịch bệnh HIV/AIDS tại Việt Nam
Theo báo cáo tiến độ phòng, chống HIV/AIDS năm 2012, tỉ lệ nhiễm HIV trong những người nam quan hệ tình dục với nam ở Thành phố Hồ Chí Minh là 16%, tỷ lệ chỉ đứng sau nhóm tiêm chích ma túy. Tại đây, cứ 5 nam quan hệ đồng giới thì có một người nhiễm ít nhất một trong các nhiễm khuẩn giang mai, lậu sinh dục, lậu trực tràng, chlamydia sinh dục hoặc chlamydia trực tràng. Nguyên nhân dẫn đến tỉ lệ lây nhiễm HIV/AIDS cao là do một đồng tính nam thường quan hệ tình dục bừa bãi với nhiều bạn tình, họ thường giới thiệu bạn tình cho nhau và cùng quan hệ tập thể, nên chỉ cần 1 người nhiễm HIV thì sẽ nhanh chóng lây lan sang các đối tượng khác. Bên cạnh đó, nhiều đồng tính nam thường quan niệm sai lầm rằng, chỉ có quan hệ khác giới mới bị nhiễm HIV, giang mai, mào gà... còn quan hệ đồng tính thì không. Một khảo sát của Ban quản lý dự án phòng chống HIV/AIDS (Việt Nam) trên 300 đồng tính nam cho thấy một số chỉ sử dụng bao cao su với bạn tình mới quen lần đầu, khi đã thân rồi họ không đề phòng nữa, dẫn tới tỷ lệ lây nhiễm HIV tăng cao.
Theo số liệu thống kê của Cục Phòng chống HIV/AIDS (Bộ Y tế Việt Nam), ước tính cả nước có khoảng 300.000 người đồng tính luyến ái nam. Tỷ lệ nhiễm HIV đã gia tăng rất nhanh ở nhóm này, từ năm 2012 tới 2020 đã tăng hơn 5 lần, từ 2,3% lên 13,3%. So với những năm đầu đại dịch, tỉ lệ nhiễm HIV trong nhóm đồng tính nam đã vọt lên mức cao nhất, vượt qua nhóm tiêm chích ma túy và mại dâm. Theo Cục Phòng chống HIV/AIDS, trong năm 2022, số ca nhiễm mới HIV trong nhóm đồng tính luyến ái nam đã chiếm tới 47% tổng số ca nhiễm mới trên toàn quốc, trong khi nhóm này chỉ chiếm tỷ lệ rất nhỏ trong dân số trên 18 tuổi ở Việt Nam.
Xem thêm
- Androphilia và Gynephilia (Sự hấp dẫn với tính nam và sự hấp dẫn với tính nữ)
- Giới và đa dạng tính dục
- Trung lập về giới
- Vai trò giới trong cộng đồng người phi-dị tính
- Homophobia
- Quyền của người liên giới tính
- Sự lão hoá ở người thuộc cộng đồng LGBT
- Các tỷ phú thuộc cộng đồng LGBT
- Cộng đồng LGBT
- Văn hoá cộng đồng LGBT
- Tháng lịch sử LGBT
- LGBT marketing
- Âm nhạc LGBT
- Người LGBT trong tù
- Vấn đề nghỉ hưu với người LGBT
- Quyền LGBT ở các quốc gia và vùng lãnh thổ
- Sự phản đối đối với quyền LGBT
- Chiến dịch xã hội vì LGBT
- LGBT student movement
- Các biểu tượng trong LGBT
- Danh sách những sự kiện lớn nhất về LGBT
- Danh sách các ấn phẩm định kỳ về LGBT
- Danh sách các tổ chức và hội nghị về LGBT
- Danh sách các nhà hoạt động vì quyền LGBT
- Danh sách các chủ đề liên quan đến chuyển giới
- Đa dạng giới
Tham khảo
Liên kết ngoài
- Lesbian, gay, bisexual, and transgendered community (SociologyContribute) tại Encyclopædia Britannica (tiếng Anh)
Wikiquote Anh ngữ sưu tập danh ngôn về: |
Giới tính và Nhận thức giới tính |
|
---|---|
Xu hướng tính dục | |
Lịch sử | |
Cộng đồng LGBT và văn hóa |
|
Luật pháp | |
Thái độ xã hội | |