Продолжая использовать сайт, вы даете свое согласие на работу с этими файлами.
Sán máng
Schistosoma mansoni | |
---|---|
Đôi giao phối Schistosomes.
| |
Phân loại khoa học | |
Giới (regnum) | Động vật |
Ngành (phylum) | Giun dẹp |
Lớp (class) | Trematoda (sán lá) |
Bộ (ordo) | Diplostomida |
Họ (familia) | Schistosomatidae |
Chi (genus) | Schistosoma |
Loài (species) | S. mansoni |
Danh pháp hai phần | |
Schistosoma mansoni Sambon, 1907 |
Sán máng có tên khoa học là Schistosoma mansoni. Đây là loại nội ký sinh trùng ở người, truyền theo đường tiêu hoá.
Người bị nhiễm sáng máng do ăn hoặc uống phải thực phẩm hoặc nước có trứng sán. Trong cơ thể người, trứng nở thành sán, sán trưởng thành thường khu trú trong các tĩnh mạch của mạng lưới mạc treo của ruột, gây ra bệnh sán máng.
Bệnh này là một bệnh nhiệt đới rất phổ biến nhưng lại có xu hướng bị quên lãng. Tính đến năm 2016, đã có hơn 200 triệu người mắc bệnh này, ở khắp nơi trên thế giới, nhiều nhất là ở Châu Phi, Trung Đông, Caribbean, Brazil, Venezuela và Guyana, Suriname.
Lược sử
Sán máng lần đầu tiên được ghi nhận nhờ Theodor Maximillian Bilharz ở Ai Cập vào năm 1851, khi phát hiện ra loài tương tự S. haematobium. Ông Patrick Manson đã xác định nó là loài độc nhất vào năm 1902. Sau đó, Louis Westenra Sambon đã đặt tên loài là S. mansoni vào năm 1907 để vinh danh Manson. Tên này tồn tại cho đến ngày nay.
Hình thái
- Gọi là sán, nhưng loài này không giống như các loại sán lá khác có dạng dẹt, mà lại là những con giun hình trụ dài. Con đực dài khoảng 1 cm, rộng khoảng 0,1 cm. . Nó có màu trắng và có một giác mút hình phễu ở đầu và một giác mút thứ hai ở bụng. Bao bọc cơ thể là một lớp kép gọi là màng, liên tục được đổi mới sau mỗi lần rụng tương tự như lột xác. Bộ máy sinh dục đực gồm 6 đến 9 khối tinh hoàn, nằm ở mặt lưng. Có một ống dẫn tinh bắt đầu ở mỗi tinh hoàn, được kết nối với một ống dẫn tinh duy nhất giãn ra thành một ống chứa (túi tinh) ở đầu ống sinh dục.
- Con cái dài hơn và mỏng hơn con đực: dài 1,2 - 1,6 cm x rộng 0,016 cm, khá giống giun đũa. Con cái có màu sẫm hơn, thường là màu xám, do sự có mặt của sắc tố hemozoin tiết ra từ ống tiêu hóa. Buồng trứng thuôn dài và có thùy khó nhận, nằm ở nửa trước của cơ thể. Một ống dẫn trứng ngắn dẫn đến vòi trứng, rồi đến vòi tử cung. Trong ống này có thể tìm thấy 1 đến 2 quả trứng, hiếm khi nhiều hơn. Lỗ sinh dục mở ra phía bụng.
Ống tiêu hóa của cả con đực và con cái bắt đầu từ miệng, gồm một thực quản chia thành hai nhánh (phải và trái) và hợp nhất lại trong một manh tràng, sau đó kết thúc trong cơ thể mà không có hậu môn.
Vòng đời
- Trứng có hình bầu dục: 115–175 µm x 45–47 µm, và đường kính trung bình ~ 150 µm. Mỗi trứng có các gai nhọn dễ bám vào vào thành nội quan của vật chủ. Sau khi được thụ tinh, trứng nở thành ấu trùng Magicidium (từ tiếng Hy Lạp μειράκιον, meirakion, có nghĩa là non trẻ) hình quả lê, càng ngày càng dài ra, kích thước khoảng 136 μm x 55 μm. Đây thực chất là bào tử của động vật. Bề mặt được bao phủ bởi các phiến biểu bì, phát sinh nhiều lông mao, trong đó có một số phát triển thành terebratorium chứa nhiều bào quan cảm giác. Bên trong chứa đầy chất dịch gồm các hạt và túi glycogen.
- Ấu trùng lớn lên và trưởng thành trong ruột người, đẻ trứng thải ra trong phân ngưrồi nhiễm vào nguồn nước. Gặp điều kiện thuận lợi, trứng nở giải phóng ấu trùng, gặp vật chủ trung gian là một loài ốc nước ngọt thuộc chi Biomphalaria. Bào tử Magicidium xâm nhập trực tiếp vào mô mềm của ốc, sinh sôinảyy nở rất nhanh chóng nhờ sinh sản vô tính, hình thành vô số bào tử con. Các bào tử con di chuyển đến gan và tuyến sinh dục của ốc sên. Trong vòng 2 - 4 tuần, chúng trải qua quá trình biến thái và phát triển thành dạng như cá, rồi nhờ tính hướng ánh sáng mà rời khỏi ốc sên vào nước.
- Người ăn phải rau hay uống phải nước chứa chúng sẽ trở thành thành vật chủ chính thức.